Tại sao lại thành lập Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam Việt Nam?
Việc thành lập Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam Việt Nam (MTDTGPMN) vào năm 1960 là một yêu cầu tất yếu của lịch sử, xuất phát từ bối cảnh và mục đích chính trị, quân sự sau Hiệp định Genève 1954:
1. Phá vỡ kế hoạch của Mỹ và chính quyền Ngô Đình Diệm
Sau năm 1954, Mỹ và chính quyền Ngô Đình Diệm đã tiến hành các chiến dịch đàn áp, khủng bố những người kháng chiến cũ và phong trào yêu nước ở miền Nam. Họ tìm cách xóa bỏ cơ sở cách mạng và chia cắt lâu dài đất nước. Để chống lại âm mưu này, cách mạng miền Nam cần một tổ chức chính trị rộng rãi để lãnh đạo nhân dân đấu tranh.
2. Thống nhất các lực lượng chống Mỹ
MTDTGPMN được thành lập để tập hợp, đoàn kết mọi tầng lớp nhân dân miền Nam, từ công nhân, nông dân, trí thức đến các dân tộc thiểu số và tôn giáo khác nhau, cùng đấu tranh chống lại kẻ thù chung. Đây là một tổ chức chính trị liên minh, có khả năng phát động phong trào đấu tranh trên cả ba mặt trận: chính trị, quân sự và ngoại giao.
3. Khẳng định tính chính danh của cách mạng miền Nam
Việc thành lập Mặt trận đã tạo ra một tổ chức đại diện chính thức cho phong trào cách mạng ở miền Nam, có cương lĩnh và chương trình hành động rõ ràng. Điều này giúp nâng cao vị thế của cách mạng miền Nam trên trường quốc tế, khẳng định cuộc đấu tranh là do nhân dân miền Nam tự đứng lên chứ không phải sự "xâm lược" từ miền Bắc. Điều này đặc biệt quan trọng trong các cuộc đàm phán quốc tế sau này, như tại Hội nghị Paris.
Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam Việt Nam là gì?
Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam Việt Nam (phía Hoa Kỳ, Việt Nam Cộng hòa và các đồng minh thường gọi là Việt Cộng) là một tổ chức liên minh chính trị hoạt động chống lại Hoa Kỳ, Việt Nam Cộng hòa và các đồng minh khác trong thời kỳ Chiến tranh Việt Nam. Đây là tổ chức được thành lập theo đường lối của Đảng Cộng sản Việt Nam tại Đại hội III với phương châm liên minh những người dân miền Nam Việt Nam có mục tiêu đấu tranh chống Mỹ và Việt Nam Cộng hòa, thực hiện đấu tranh giành độc lập dân tộc, thống nhất đất nước Việt Nam. Năm 1969, mặt trận này cùng Liên minh các Lực lượng Dân tộc, Dân chủ và Hòa bình Việt Nam thành lập Chính phủ Cách mạng lâm thời Cộng hòa miền Nam Việt Nam tại Nam Việt Nam. Mặt trận nhận được sự viện trợ và giúp đỡ của Việt Nam Dân chủ Cộng hòa và chịu sự lãnh đạo linh hoạt của Đảng Lao động Việt Nam.
Đây là tổ chức kế thừa Mặt trận Tổ quốc Việt Nam (Mặt trận của cả nước từ Bắc đến Nam) ở miền Nam (công nhận bởi các tài liệu sau năm 1975) nhằm chống lại Hoa Kỳ và chế độ Việt Nam Cộng hoà ở miền Nam Việt Nam, ra đời trong phong trào Đồng khởi của người dân ở miền Nam. Chủ trương của Mặt trận là: "Đoàn kết toàn dân, kiên quyết đấu tranh chống đế quốc Mỹ xâm lược và gây chiến, đánh đổ tập đoàn thống trị Ngô Đình Diệm, tay sai đế quốc Mỹ; thành lập một chính quyền liên minh dân tộc dân chủ rộng rãi ở miền Nam, thực hiện độc lập dân tộc, tự do, dân chủ, cải thiện dân sinh, giữ vững hoà bình, thi hành chính sách trung lập, tiến tới hòa bình thống nhất Tổ quốc, tích cực góp phần bảo vệ hoà bình ở Đông Dương, Đông Nam Á và thế giới."
Tổ chức này được thành lập dưới sự hậu thuẫn và được hỗ trợ tài chính, thiết bị và nhân sự bởi nhiều bộ phận dân cư tại miền Nam Việt Nam cũng như của chính phủ và quân đội của Việt Nam Dân chủ Cộng hòa. Trước khi Chính phủ Cách mạng lâm thời Cộng hòa Miền Nam Việt Nam thành lập, Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam Việt Nam tồn tại như một phong trào chính trị và cơ quan Ủy ban Trung ương hoạt động như là một cơ quan hành pháp lâm thời, đại diện cho các vùng thuộc quyền kiểm soát, quản lý các vùng do Mặt trận quản lý. Ban đầu, những người hoạt động trong lĩnh vực dân sự và chính trị Việt Minh vẫn được ở lại miền Nam để tham gia Tổng tuyển cử thống nhất đất nước được dự kiến diễn ra trong năm 1956 (Hiệp định Geneve quy định chỉ nhân viên quân sự là tập kết bắt buộc, còn cán bộ chính trị được ở nguyên tại chỗ để chuẩn bị Tổng tuyển cử). Tuy nhiên, phía chính quyền Ngô Đình Diệm tiến hành đàn áp những thành viên và những người ủng hộ Việt Minh. Để phản kháng, các lực lượng Việt Minh tổ chức Phong trào Đồng khởi. Sau này, do yêu cầu về việc huy động rộng rãi các thành phần xã hội khác nhau và ủng hộ rộng rãi của quốc tế chống Mỹ và Việt Nam cộng hòa, thực hành "cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân" theo chủ trương của Đảng Lao động, Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam Việt Nam được thành lập. Việc thành lập đã tạo vị thế mới cho lực lượng cách mạng ở miền Nam Việt Nam.
Mặt trận liên tục tổ chức, lãnh đạo các hoạt động nhằm chống lại sự can thiệp của Mỹ và các đồng minh, nhằm đấu tranh thống nhất đất nước Việt Nam. Để thực hiện mục đích đó, Quân Giải phóng Miền Nam đã được thành lập ngày 15 tháng 2 năm 1961, do Trung ương cục miền Nam lãnh đạo, sau đó gia nhập Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam Việt Nam. Quân Giải phóng Miền Nam đã thực hiện chiến tranh nhân dân chống lại Hoa Kỳ và chính phủ Sài Gòn, với chi viện về vũ khí và người từ miền Bắc.
Trước 1975, Mặt trận tuyên bố là tổ chức hoạt động độc lập, song cũng công nhận tuyên bố chủ quyền trên cả nước của chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hòa (tại tuyên ngôn độc lập năm 1945), cho đến khi Cộng hòa Miền Nam Việt Nam tuyên bố chủ quyền ở miền Nam năm 1969. Từ 31 tháng 1 năm 1977, tổ chức này sáp nhập hoàn toàn với Mặt trận Tổ quốc Việt Nam. Ngày nay Nhà nước Việt Nam khẳng định Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam Việt Nam, cũng như các mặt trận trước đó và sau này là các tổ chức chính trị - xã hội dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam, thực hiện các nhiệm vụ đoàn kết toàn dân để đạt mục tiêu chính trị do Đảng đề ra.
Tại các nước đang phát triển, lực lượng Mặt trận dân tộc giải phóng miền Nam Việt Nam được ngưỡng mộ rộng khắp như một hình mẫu của tinh thần chống chủ nghĩa đế quốc và cam kết cải cách chính trị - kinh tế. Ví dụ như thiết kế cơ bản của quốc kỳ Burkina Faso có thể đã được lấy cảm hứng từ lá cờ của Mặt trận dân tộc giải phóng miền Nam Việt Nam
Ai là lãnh đạo mặt trận?
Lãnh đạo cao nhất của Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam Việt Nam (MTDTGPMN) là Luật sư Nguyễn Hữu Thọ.
Ông được bầu làm Chủ tịch Đoàn Chủ tịch Ủy ban Trung ương MTDTGPMN vào ngày 20 tháng 12 năm 1960 khi Mặt trận được thành lập. Ông giữ chức vụ này cho đến khi MTDTGPMN sáp nhập với Liên minh các Lực lượng Dân tộc, Dân chủ và Hòa bình Việt Nam để thành lập Mặt trận Tổ quốc Việt Nam vào năm 1977.
Ngoài ra, còn có các thành viên chủ chốt khác trong ban lãnh đạo như:
- Huỳnh Tấn Phát: Kiến trúc sư, là Tổng Thư ký của Mặt trận. Sau này, ông giữ chức Chủ tịch Chính phủ Cách mạng lâm thời Cộng hòa miền Nam Việt Nam.
- Nguyễn Thị Bình: Bà là Bộ trưởng Bộ Ngoại giao của Chính phủ Cách mạng lâm thời Cộng hòa miền Nam Việt Nam và là Trưởng phái đoàn tại Hội nghị Paris.
Việc lựa chọn luật sư, trí thức Nguyễn Hữu Thọ làm Chủ tịch không phải là ngẫu nhiên, mà là một sự lựa chọn chiến lược để thu hút sự ủng hộ của các tầng lớp nhân dân, đặc biệt là giới trí thức, đồng thời khẳng định tính chất hợp pháp và chính nghĩa của cuộc đấu tranh ở miền Nam.
TẠI SAO CHỌN LUẬT SƯ NGUYỄN HỮU THỌ? HUỲNH TẤN PHÁT?
Việc lựa chọn Luật sư Nguyễn Hữu Thọ làm Chủ tịch Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam Việt Nam là một quyết định mang tính chiến lược, dựa trên một số lý do quan trọng sau:
1. Uy tín và tầm ảnh hưởng
- Tập hợp lực lượng: Ông Nguyễn Hữu Thọ là một luật sư nổi tiếng và một trí thức lớn ở miền Nam. Việc chọn một nhân sĩ, trí thức làm người đứng đầu Mặt trận giúp thu hút sự ủng hộ rộng rãi của các tầng lớp xã hội khác nhau, đặc biệt là giới trí thức, sinh viên, học sinh, và các tầng lớp trung lưu thành thị.
- Biểu tượng đấu tranh: Trước khi Mặt trận ra đời, ông đã tham gia các phong trào yêu nước và bị chính quyền Ngô Đình Diệm bắt giam, quản thúc. Điều này khiến ông trở thành một biểu tượng của lòng yêu nước và ý chí đấu tranh chống lại chính quyền Sài Gòn và Mỹ.
2. Khẳng định tính độc lập và chính nghĩa
- Tính chất dân tộc: Việc Mặt trận do một người con của miền Nam, một trí thức yêu nước không phải là đảng viên Cộng sản công khai đứng đầu, đã giúp khẳng định đây là một cuộc đấu tranh của nhân dân miền Nam, vì quyền lợi của miền Nam.
- Vị thế quốc tế: Điều này tạo một danh nghĩa hợp pháp và chính danh cho cuộc đấu tranh trên trường quốc tế, phản bác lại tuyên truyền của Mỹ rằng đây là "sự xâm lược của miền Bắc". Khi đó, Mặt trận có thể tự đại diện cho nhân dân miền Nam trong các cuộc đàm phán ngoại giao.
Ông Huỳnh Tấn Phát được chọn vào vai trò quan trọng trong Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam Việt Nam vì những lý do chiến lược về cả chuyên môn lẫn chính trị.
1. Về học vấn và chuyên môn
Ông Huỳnh Tấn Phát là một kiến trúc sư có tiếng và hoạt động nghề nghiệp thành công ở Sài Gòn trước khi tham gia cách mạng. Việc Mặt trận chọn một trí thức nổi bật, có học vị cao, làm lãnh đạo đã mang lại nhiều lợi ích:
- Tăng tính chính danh: Khẳng định rằng cuộc đấu tranh không chỉ là của người dân lao động mà còn có sự tham gia của giới trí thức, chuyên gia. Điều này giúp Mặt trận có thêm uy tín và tiếng nói trong lòng người dân thành thị.
- Mở rộng ảnh hưởng: Thu hút sự ủng hộ của giới trí thức, sinh viên, và các tầng lớp trung lưu, vốn rất quan trọng trong cuộc đấu tranh chính trị ở miền Nam.
2. Về vai trò chính trị
- Tổng Thư ký Mặt trận: Đây là chức danh quan trọng, tương đương với người đứng đầu bộ máy hành chính, tổ chức của Mặt trận. Với vai trò Tổng Thư ký, ông đã đóng góp vào việc xây dựng và triển khai đường lối, chính sách của Mặt trận.
- Chủ tịch Chính phủ Cách mạng lâm thời Cộng hòa miền Nam Việt Nam: Sau khi Chính phủ Cách mạng lâm thời được thành lập (1969), ông Huỳnh Tấn Phát được bầu làm Chủ tịch. Điều này thể hiện sự tín nhiệm cao và khẳng định vai trò lãnh đạo chủ chốt của ông trong cả Mặt trận Dân tộc Giải phóng và chính quyền cách mạng ở miền Nam.
TẠI SAO LÊ DUẨN KHÔNG LÀM CHỦ TỊCH MẶT TRẬN?
Ông Lê Duẩn có vai trò quan trọng trong việc chỉ đạo cách mạng miền Nam và việc thành lập Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam.
Vị trí của ông Lê Duẩn
Vào thời điểm thành lập Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam Việt Nam (cuối năm 1960), ông Lê Duẩn đã ở miền Bắc với chức vụ Bí thư thứ nhất Ban Chấp hành Trung ương Đảng. Tuy nhiên, trước đó ông đã được phân công ở lại miền Nam từ sau Hiệp định Genève (1954) để trực tiếp chỉ đạo phong trào cách mạng. Ông chính là người đã soạn thảo Đề cương cách mạng miền Nam, là cơ sở lý luận cho phong trào đấu tranh vũ trang sau này.
Tại sao ông không làm Chủ tịch Mặt trận
Ông Lê Duẩn không được cử làm Chủ tịch Mặt trận vì Mặt trận Dân tộc Giải phóng được xây dựng với mục tiêu là một tổ chức liên minh chính trị rộng lớn, tập hợp nhiều tầng lớp nhân dân, giai cấp, đảng phái, tôn giáo và nhân sĩ yêu nước ở miền Nam, không chỉ riêng những người cộng sản.
Việc chọn Luật sư Nguyễn Hữu Thọ, một trí thức yêu nước không phải là đảng viên Đảng Cộng sản công khai, làm Chủ tịch là một quyết định mang tính chiến lược. Mục đích là để:
- Tạo tính chính danh: Khẳng định đây là một cuộc đấu tranh tự phát của nhân dân miền Nam.
- Mở rộng ảnh hưởng: Thu hút sự tham gia của các tầng lớp xã hội rộng rãi, đặc biệt là giới trí thức và các lực lượng không thuộc Đảng Cộng sản, từ đó tăng cường sức mạnh đoàn kết dân tộc.
Trong khi đó, ông Lê Duẩn giữ vai trò lãnh đạo cao nhất của Đảng Cộng sản Việt Nam, là người chỉ đạo chung cho toàn bộ cuộc chiến tranh giải phóng, bao gồm cả phong trào ở miền Nam. Việc giữ ông ở vị trí lãnh đạo Đảng giúp duy trì sự chỉ đạo bí mật, thống nhất và toàn diện từ Trung ương, trong khi Mặt trận Dân tộc Giải phóng hoạt động với tư cách là một tổ chức đại diện công khai ở miền Nam.