Chi tiết Tác phẩm Ai Tư Vãn - Văn tế khóc chồng -
Lê Ngọc Hân - Vợ Vua Quang Trung Nguyễn Huệ- nữ sĩ tài hoa biểu tượng của phẩm hạnh Việt Nam
Gió hiu hắt, phòng tiêu lạnh lẽo,
Trước thềm lan hoa héo ron ron.
Cầu tiên khói toả đỉnh non,
Xe rồng thăm thẳm, bóng loan rầu rầu.
Nỗi lai lịch dễ hầu than thở,
Trách nhân duyên mờ lỡ cớ sao?
Sầu sầu, thảm thảm xiết bao,
Sầu đầy dạt bể, thảm cao ngất trời.
Từ cờ thắm trỏ về cõi Bắc,
Nghĩa tôn phù vằng vặc bóng dương.
Xe dây vâng mệnh phụ hoàng,
Thuyền lan, chèo quế thuận đường vu quy.
Trăm ngàn dặm quản chi non nước,
Chữ nghi gia mừng được phải duyên,
Sang yêu muôn đội ơn trên,
Rỡ ràng vẻ thuý, nối chen tiếng cầm.
Lượng che chở, vụng lầm nào kể,
Phận đinh ninh, cặn kẽ mọi lời,
Dầu rằng non nước biến dời,
Nguồn tình ắt chẳng chút vơi đâu là.
Lòng đùm bọc thương hoa đoái cội,
Khắp tôn thân cùng đội ơn sang.
Miếu đình còn dấu chưng thường,
Tùng thu còn rậm mấy hàng xanh xanh.
Nhờ hồng phúc, đôi cành hoè quế,
Đượm hơi dương, dây rễ cùng tươi.
Non Nam lần chúc tuổi trời,
Dâng câu thiên bảo, bày lời hoa phong.
Những ao ước chập chồng tuổi hạc,
Nguyền trăm năm ngõ được vầy vui.
Nào hay sông cạn, bể vùi,
Lòng trời tráo trở, vận người biệt ly.
Từ tháng hạ, mưa hè trái tiết,
Xót mình rồng mỏi mệt chẳng yên.
Xiết bao kinh sợ lo phiền,
Miếu thần đã đảo, thuốc tiên lại cầu.
Khắp mọi chốn đâu đâu tìm rước,
Phương pháp nào đổi được cùng chăng?
Ngán thay, máy Tạo bất bằng,
Bóng mây thoắt đã ngất chừng xe loan.
Cuộc tụ, tán, bi, hoan kíp bấy,
Kể sum vầy đã mấy năm nay?
Linh đinh chút phận bèo mây,
Duyên kia đã vậy, thân này nương đâu?
Trằn trọc luống đêm thâu, ngày tối,
Biết cậy ai dập nỗi bi thương?
Trong mong luống những mơ màng,
Mơ hồ bằng mộng, bàng hoàng như say.
Khi trận gió, hoa bay thấp thoáng,
Ngỡ hương trời bảng lảng còn đâu.
Vội vàng sửa áo lên chầu,
Thương ôi, quạnh quẽ trước lầu nhện giăng.
Khi bóng trăng lá in lấp lánh,
Ngỡ tàn vàng nhớ cảnh ngự chơi.
Vội vàng dạo bước tới nơi,
Thương ôi, vắng vẻ giữa trời sương sa.
Tưởng phong thể xót xa đòi đoạn,
Mặt rồng sao cách dáng lâu nay!
Có ai chốn ấy về đây,
Nguồn cơn xin ngỏ cho hay được đành?
Nẻo u minh khéo chia đôi ngả,
Nghĩ đòi phen, nồng nã đòi phen.
Kiếp này chưa trọn chữ duyên,
Ước xin kiếp khác vẹn tuyền lửa hương.
Nghe trước có đấng vương Thang, Võ,
Công nghiệp nhiều, tuổi thọ thêm cao;
Mà nay áo vải, cờ đào,
Giúp dân, dựng nước, biết bao công trình!
Nghe rành rành trước vua Nghiêu, Thuấn,
Công đức dày, ngự vận càng lâu;
Mà này lượng cả, ơn sâu,
Móc mưa tưới khắp chín châu đượm nhuần.
Công dường ấy, mà nhân dường ấy,
Cõi thọ sao hẹp bấy Hoá Công?
Rộng cho chuộc được tuổi rồng,
Đổi thân ắt hẳn bõ lòng tôi ngươi.
Buồn thay nhẽ sương rơi, gió lọt,
Cảnh đìu hiu, thánh thót châu sa.
Tưởng lời di chúc thiết tha,
Khóc nào nên tiếng, thức mà cũng mê.
Buồn thay nhẽ xuân về, hoa ở,
Mối sầu riêng ai gỡ cho xong?
Quyết liều mong vẹn chữ tòng,
Trên rừng nào nại, giữa dòng nào e.
Còn trứng nước thương vì đôi chút,
Chữ tình thâm chưa thoát được đi,
Vậy nên nấn ná đòi khi,
Hình tuy còn ở, phách thì đã theo.
Theo buổi trước ngự đèo Bồng đảo,
Theo buổi sau ngự nẻo sông Ngân,
Theo xa thôi lại theo gần,
Theo phen điện quế, theo lần nguồn hoa.
Đương theo, bỗng tiếng gà sực tỉnh,
Đau đớn thay, ấy cảnh chiêm bao!
Mơ màng thêm nỗi khát khao,
Ngọc kinh chốn ấy ngày nào tới nơi?
Tưởng thôi lại bồi hồi trong dạ,
Nguyện đồng sinh sao đã kíp phai?
Xưa sao sớm hỏi, khuya bày,
Nặng lòng vàng đá, cạn lời tóc tơ.
Giờ sao bỗng thờ ơ lặng lẽ,
Tình cô đơn, ai kẻ xét đâu?
Xưa sao gang tấc gần chầu,
Trước sân phong nguyệt, trên lầu sinh ca.
Giờ sao bỗng cách xa đôi cõi,
Tin hàn uyên khôn hỏi thăm linh.
Nửa cung gảy phím cầm lành,
Nỗi con côi cút, nỗi mình bơ vơ.
Nghĩ nông nỗi, ngẩn ngơ đòi lúc,
Tiếng tử quy thêm giục lòng thương!
Não người thay, cảnh tiên hương,
Dạ thường quanh quất, mắt thường ngóng trông.
Trông mái đông: lá buồm xuôi ngược,
Thấy mênh mông những nước cùng mây.
Đông rồi thì lại trông tây:
Thấy non ngân ngất, thấy cây rườm rà.
Trông nam thấy nhạn sa lác đác,
Trông bắc, thôi ngàn bạc màu sương.
Nọ trông trời đất bốn phương,
Cõi tiên khơi thẳm, biết đường nào đi?
Cậy ai có phép gì tới đó,
Dâng vật thường, xin ngỏ lòng trung:
Này gương là của Hán cung,
Ơn trên xưa đã soi chung đòi ngày.
Duyên hảo hợp xót rày nên lẻ,
Bụng ai hoài lạnh ghẻ vì đâu?
Xin đưa gương ấy về chầu,
Ngõ soi cho tỏ gót đầu mong ơn.
Tưởng linh sảng nhơn nhơn còn dấu,
Nỗi sinh cơ có thấu cho không?
Cung xanh đương tuổi ấu xung,
Di mưu sao nỡ quên lòng đoái thương?
Gót lân chỉ mấy hàng lẫm chẫm,
Đầu mũ mao, mình tấm áo gai.
U ơ ra trước hương đài,
Tưởng quang cảnh ấy chua cay dường nào!
Trong sáu viện ố đào, ủ liễu,
Xác ve gầy, lỏng lẻo xiêm nghê.
Long đong xa cách hương quê,
Mong theo: lầm lối; mong về: tủi duyên.
Dưới bệ ngọc, hàn uyên vò võ,
Cất chân tay thương khó xiết chi!
Hang sâu nghe tiếng thương bi,
Kẻ sơ còn thế, huống gì người thân?
Cảnh ly biệt nhiều phần bát ngát,
Mạch sầu tuôn, ai tát nên vơi?
Càng trông càng một xa vời,
Tấc lòng thảm thiết, chín trời biết chăng?
Buồn trông trăng, trăng mờ thêm tủi,
Gương Hằng Nga đã bụi màu trong.
Nhìn gương càng thẹn tấm lòng,
Thiên duyên lạnh lẽo, đêm đông biên hà.
Buồn xem hoa, hoa buồn thêm thẹn,
Cánh hải đường đã quyện giọt sương.
Trông chim càng dễ đoạn trường:
Uyên ương chiếc bóng, phượng hoàng lẻ đôi.
Cảnh nào cũng ngùi ngùi cảnh ấy,
Tiệc vui mừng còn thấy chi đâu?
Phút giây bãi bể nương dâu,
Cuộc đời là thế, biết hầu nài sao?
Chữ tình nghĩa: trời cao, đất rộng,
Nỗi đoạn trường: còn sống, còn đau.
Mấy lời tâm sự trước sau,
Đôi vầng nhật nguyệt trên đầu chứng cho.
Năm 1792, vua Quang Trung mất, bà còn trẻ đã trở thành một goá phụ. Đây là bài Ai tư vãn, thi phẩm của Ngọc Hân công chúa mà nhiều người như ông Thuần Phong đã nói trong sách Chinh phụ ngâm khúc giảng luận (do Á Châu xuất bản), công nhận là chịu ảnh hưởng bản dịch Chinh phụ ngâm của bà Đoàn Thị Điểm.[Thông tin 1 nguồn tham khảo đã được ẩn]

